793000₫
bk8 live Chiếc '''Chance Vought F4U Corsair''' là máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ hoạt động rộng rãi trong giai đoạn nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên cũng như trong vài cuộc xung đột địa phương riêng lẻ. Ngoài Chance Vought thì Corsair cũng được sản xuất bởi Goodyear mang ký kiệu '''FG''' và bởi Brewster mang ký kiệu '''F3A'''. Corsair vẫn còn phục vụ trong không lực một số nước cho đến những năm 1960, là kiểu máy bay tiêm kích cánh quạt được sản xuất lâu nhất trong lịch sử không quân (1940 - 1952). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đây chính là chiếc máy bay tiêm kích người Nhật sợ nhất. Thống kê của Hải quân Mỹ ghi nhận tỉ lệ thắng-thua (kill ratio) của F4U là 11:1 so với Mitsubishi A6M Zero của Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản, 6:1 với các dòng máy bay đánh chặn của Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản như Kawanishi N1K hay Mitsubishi J2M hay Nakajima Ki-84. Được trang bị động cơ Pratt & Whitney R-2800 có tăng áp, nó phát ra âm thanh như huýt sáo khi tấn công bổ nhào, và người Nhật đặt cho nó biệt danh Tiếng huýt sáo chết chóc.
bk8 live Chiếc '''Chance Vought F4U Corsair''' là máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ hoạt động rộng rãi trong giai đoạn nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên cũng như trong vài cuộc xung đột địa phương riêng lẻ. Ngoài Chance Vought thì Corsair cũng được sản xuất bởi Goodyear mang ký kiệu '''FG''' và bởi Brewster mang ký kiệu '''F3A'''. Corsair vẫn còn phục vụ trong không lực một số nước cho đến những năm 1960, là kiểu máy bay tiêm kích cánh quạt được sản xuất lâu nhất trong lịch sử không quân (1940 - 1952). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đây chính là chiếc máy bay tiêm kích người Nhật sợ nhất. Thống kê của Hải quân Mỹ ghi nhận tỉ lệ thắng-thua (kill ratio) của F4U là 11:1 so với Mitsubishi A6M Zero của Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản, 6:1 với các dòng máy bay đánh chặn của Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản như Kawanishi N1K hay Mitsubishi J2M hay Nakajima Ki-84. Được trang bị động cơ Pratt & Whitney R-2800 có tăng áp, nó phát ra âm thanh như huýt sáo khi tấn công bổ nhào, và người Nhật đặt cho nó biệt danh Tiếng huýt sáo chết chóc.
Mandelstam bắt đầu sự nghiệp thơ ca như một nhà thơ của phái hình tượng, chịu ảnh hưởng của Sologub và Tyutchev. Cuối năm 1912 tham gia phái ''Asmeist'', kết bạn với Anna Akhmatova, Nicolai Gumilyov, xuất bản tập thơ đầu ''Камень'' (Đá, ba ấn bản: 1913, 1916, 1922). Thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất và Cách mạng tháng Mười (1916-1920) Mandelstam hoàn thành tập thơ thứ hai ''Tristia'', xuất bản năm 1922, năm 1923 in lại dưới tên ''Quyển sách thứ hai'' đề tặng Nazezhda Khazina, vợ của nhà thơ. Những năm 1925-1930 Mandelstam chỉ viết văn, năm 1930 bắt đầu quay lại với thơ.