174000₫
dabet wo Dưới triều đại cai trị của Nhà Capétien nước Pháp chậm chạp mở rộng quyền lực trung ương tới giới quý tộc, vươn ra khỏi Île-de-France để kiểm soát ngày càng nhiều phần vương quốc vào thế kỉ 11 và 12. Họ đối mặt với một đối thủ hùng mạnh từ ngôi Công tước Normandie, mà dưới thời William Người chinh phục đã lên cầm quyền ở Anh năm 1066 và tạo ra một đế chế hai bên eo biển tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, trong suốt phần còn lại của thời Trung Cổ. Những người Norman cũng định cư ở Sicilia và bắc Ý, khi Robert Guiscard (mất năm 1085) đổ bộ vào năm 1059 và lập nên một công quốc mà về sau trở thành Vương quốc Sicilia. Dưới triều Angevin của Henry II (cai trị 1154-1189) và con trai ông là Richard Tim sư tử (cai trị 1189-1199), vương triều Anh cai trị phần lớn xứ Anh và nhiều vùng rộng lớn thuộc Pháp, mà gia tộc thu được thông qua đám cưới của Henry II với Eleanor của Aquitaine, người thừa kế phần lớn miền nam Pháp. Em trai của Richard là John Mất đất (cai trị 1199-1216) để mất Normandie và phần còn lại của tài sản gia tộc ở bắc Pháp năm 1204 vào tay vua Pháp Philippe II Augustus (cai trị 1180-1223). Điều này dẫn tới sự bất mãn của quý tộc, cộng thêm việc tăng thuế quá mức nhằm bù đắp cho những nỗ lực bất thành để tái chiếm Normandie cuối cùng khiến nhà vua phải chấp thuận ''Magna Carta'' (Đại Hiến chương), một thỏa ước xác nhận quyền và đặc quyền của nam công dân tự do trong toàn xứ Anh. Dưới triều Henry III (cai trị 1216-1272), con trai John, có thêm những sự nhượng bộ cho giới quý tộc, và quyền lực hoàng gia ngày càng suy giảm, trong khi một hình thức nghị viện của giới quý tộc manh nha hình thành. Trái lại, các vị quân vương Pháp tiếp tục thu được lợi ích trong cuộc đấu tranh với quý tộc cát cứ trong cuối thế kỉ 12 và thế kỉ 13, thâu tóm nhiều miền lãnh thổ vào tầm kiểm soát của vương quyền và củng cố bộ máy hành chính trung ương. Dưới thời Louis IX (cai trị 1226-1270), thanh thế hoàng gia Pháp đạt đỉnh cao mới khi Louis đóng vai trò như một người dàn xếp các sự vụ chính trị cho phần lớn châu Âu.
dabet wo Dưới triều đại cai trị của Nhà Capétien nước Pháp chậm chạp mở rộng quyền lực trung ương tới giới quý tộc, vươn ra khỏi Île-de-France để kiểm soát ngày càng nhiều phần vương quốc vào thế kỉ 11 và 12. Họ đối mặt với một đối thủ hùng mạnh từ ngôi Công tước Normandie, mà dưới thời William Người chinh phục đã lên cầm quyền ở Anh năm 1066 và tạo ra một đế chế hai bên eo biển tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, trong suốt phần còn lại của thời Trung Cổ. Những người Norman cũng định cư ở Sicilia và bắc Ý, khi Robert Guiscard (mất năm 1085) đổ bộ vào năm 1059 và lập nên một công quốc mà về sau trở thành Vương quốc Sicilia. Dưới triều Angevin của Henry II (cai trị 1154-1189) và con trai ông là Richard Tim sư tử (cai trị 1189-1199), vương triều Anh cai trị phần lớn xứ Anh và nhiều vùng rộng lớn thuộc Pháp, mà gia tộc thu được thông qua đám cưới của Henry II với Eleanor của Aquitaine, người thừa kế phần lớn miền nam Pháp. Em trai của Richard là John Mất đất (cai trị 1199-1216) để mất Normandie và phần còn lại của tài sản gia tộc ở bắc Pháp năm 1204 vào tay vua Pháp Philippe II Augustus (cai trị 1180-1223). Điều này dẫn tới sự bất mãn của quý tộc, cộng thêm việc tăng thuế quá mức nhằm bù đắp cho những nỗ lực bất thành để tái chiếm Normandie cuối cùng khiến nhà vua phải chấp thuận ''Magna Carta'' (Đại Hiến chương), một thỏa ước xác nhận quyền và đặc quyền của nam công dân tự do trong toàn xứ Anh. Dưới triều Henry III (cai trị 1216-1272), con trai John, có thêm những sự nhượng bộ cho giới quý tộc, và quyền lực hoàng gia ngày càng suy giảm, trong khi một hình thức nghị viện của giới quý tộc manh nha hình thành. Trái lại, các vị quân vương Pháp tiếp tục thu được lợi ích trong cuộc đấu tranh với quý tộc cát cứ trong cuối thế kỉ 12 và thế kỉ 13, thâu tóm nhiều miền lãnh thổ vào tầm kiểm soát của vương quyền và củng cố bộ máy hành chính trung ương. Dưới thời Louis IX (cai trị 1226-1270), thanh thế hoàng gia Pháp đạt đỉnh cao mới khi Louis đóng vai trò như một người dàn xếp các sự vụ chính trị cho phần lớn châu Âu.
Trong khi Tây Âu chứng kiến sự hình thành những vương quốc mới, Đế quốc Đông Rôma vẫn còn nguyên vẹn và trải qua một sự phục hồi kinh tế cho tới đầu thế kỉ 7. Ít có cuộc xâm lược động đến miền đông đế chế; hầu hết xảy ra ở vùng Balkan. Hòa bình với Ba Tư, kẻ thù truyền kiếp của Rôma, kéo dài trong phần lớn thế kỉ 5. Đế quốc phương đông đặc trưng bởi những mối quan hệ gần gũi hơn giữa nhà nước chính trị và Giáo hội Ki-tô, và những vấn đề giáo lý có một vai trò quan trọng hơn trong chính trị phương đông so với Tây Âu. Sự phát triển của nền pháp lý bao gồm sự hoàn chỉnh Luật Rôma; nỗ lực đầu tiên-''Bộ luật Theodosianus''-hoàn tất năm 438. Dưới triều đại hoàng đế Justinian (cai trị 527-565), một đợt biên soạn mới diễn ra ''Bộ luật Justinianus'' hay ''Corpus Juris Civilis'' (Bộ Luật Dân sự). Justinian cũng giám sát việc xây dựng Đại giáo đường Hagia Sophia ở Contantinopolis và sự tái chinh phục Bắc Phi từ tay người Vandal và Ý từ người Ostrogoth của đội quân Rôma do viên tướng tài Belisarius (chết năm 565) thống lĩnh. Cuộc chinh phục Ý không hoàn thành, bởi một sự bùng phát dịch hạch năm 542 đầy chết chóc, buộc Justinian dành phần cuối cuộc đời tập trung vào các biện pháp phòng thủ thay vì mở rộng tái chiếm. Khi vị hoàng đế băng hà, Byzantine đã lấy lại quyền kiểm soát phần lớn Ý, Bắc Phi, và có một chỗ đứng chân ở nam Tây Ban Nha. Nhiều nhà sử học chỉ trích tham vọng khôi phục Đế quốc Rôma thống nhất của Justinianus là tốn kém, tạo ra một đế quốc quá lớn vượt tầm kiểm soát và tạo điều kiện cho người Hồi giáo xâm lược; tuy nhiên những vấn đề mà những người kế tục Justinian đối diện không chỉ bởi việc tăng thuế quá mức để bù đắp chiến phí mà còn là bản chất dân sự của đế chế, khiến cho việc tăng quân số hết sức khó khăn.