659000₫
jj88 j88 jj88 Hình:RIAN archive 187524 The crew of a diesel-powered Varshavyanka -Kilo--class submarine.jpg|nhỏ|trái|300px|Tàu ngầm lớp Kilo Varshavyanka của Hạm đội Nga năm 2008
jj88 j88 jj88 Hình:RIAN archive 187524 The crew of a diesel-powered Varshavyanka -Kilo--class submarine.jpg|nhỏ|trái|300px|Tàu ngầm lớp Kilo Varshavyanka của Hạm đội Nga năm 2008
Năm 1836'','' nhà sinh vật học người Đan Mạch Theodore Edward Cantor miêu tả bốn mẫu vật rắn hổ mang chúa lần đầu tiên với danh pháp khoa học là ''Hamadryas hannah'', ba mẫu được bắt giữ ở Sundarbans và một mẫu ở vùng lân cận gần Kolkata. Năm 1837, danh pháp ''Naja bungarus'' được Hermann Schlegel đề xuất nhằm mô tả một mẫu động vật học về rắn hổ mang chúa trên đảo Java. Năm 1838, Cantor đề xuất danh pháp ''Hamadryas ophiophagus'' cho loài này và diễn giải rằng loài có đặc điểm răng miệng trung gian giữa hai chi ''Naja'' và ''Bungarus''. Năm 1840, danh pháp ''Naia vittata'' được Walter Elliot đề xuất dành cho một cá thể rắn hổ mang chúa bị bắt ngoài khơi gần Chennai. Năm 1858, danh pháp ''Hamadryas elaps'' được Albert Günther đề xuất dành cho những mẫu vật rắn hổ mang chúa tại Philippines và đảo Borneo. Günther xem xét gộp chung cà hai loài ''N. bungarus'' và ''N. vittata'' thành ''H. elaps''. Chi ''Ophiophagus'' được Günther đề xuất vào năm 1864. Danh pháp được đặt dựa tiếng Hy Lạp cổ mang nghĩa đen là con vật ăn thịt rắn. Đến năm 1882, danh pháp ''Naja ingens'' được Alexander Willem Michiel van Hasselt đề xuất dành cho một cá thể loài này bị bắt gần Tebing Tinggi tại miền bắc đảo Sumatra.