457000₫
kim huyen kynu Thanh Biện (zh. 清辯, sa. ''bhāvaviveka'') áp dụng luận lý học của Duy thức tông và Nhân minh học của Trần-na (zh. 陳那, sa. ''dignāga'') trong thuyết Trung luận của mình. Sư hay nhấn mạnh đến tính hợp quy luật, xây dựng luận thức độc đáo của chính mình và sau đó tiến tới bác bỏ lập luận đối phương. Vì thế nên hệ phái của Sư mang tên là Trung quán-Tự ý lập tông (zh. 中觀自意立宗) hay Trung quán-Y tự khởi tông (zh. 中觀依自起宗, sa. ''svātantrika-mādhyamika''). Sư cũng phân tích và phê bình các luận sư khác và công kích luôn cả Phật Hộ. Tất nhiên qua đó Thanh Biện có nhiều sai biệt với các luận sư khác, như về thể tính của ý thức, sư xem nó chỉ là một phần của thế giới hiện tượng.
kim huyen kynu Thanh Biện (zh. 清辯, sa. ''bhāvaviveka'') áp dụng luận lý học của Duy thức tông và Nhân minh học của Trần-na (zh. 陳那, sa. ''dignāga'') trong thuyết Trung luận của mình. Sư hay nhấn mạnh đến tính hợp quy luật, xây dựng luận thức độc đáo của chính mình và sau đó tiến tới bác bỏ lập luận đối phương. Vì thế nên hệ phái của Sư mang tên là Trung quán-Tự ý lập tông (zh. 中觀自意立宗) hay Trung quán-Y tự khởi tông (zh. 中觀依自起宗, sa. ''svātantrika-mādhyamika''). Sư cũng phân tích và phê bình các luận sư khác và công kích luôn cả Phật Hộ. Tất nhiên qua đó Thanh Biện có nhiều sai biệt với các luận sư khác, như về thể tính của ý thức, sư xem nó chỉ là một phần của thế giới hiện tượng.
Trưởng lão Ni kệ (zh. 長老尼偈, pi. ''therī-gāthā''): gồm 73 bài kệ của các vị ni trưởng lão (pi. ''therī''). Gồm 524 bài kệ do 73 Tỷ kheo ni cảm tác. Cả hai tập thi kệ Theragàthà và Therigàthà được đánh giá là những tác phẩm đẹp nhất trong văn học Ấn Độ vì tính cách mang nặng tình người hòa lẫn thiền vị của các đệ tử Phật. Đây là những khúc hoan ca phản ánh đời sống thanh tịnh của những người tầm cầu giải thoát giác ngộ, chân hạnh phúc.