875000₫
kynu tra vinh Walter Kaufmann chỉ trích các phương pháp vô căn cứ sâu sắc và sự khinh miệt nguy hiểm cho lý do đã trở nên quá nổi bật trong triết học hiện sinh. Các nhà triết học thực chứng logic (logical positivist philosophers), như Rudolf Carnap và AJ Ayer, khẳng định rằng những người theo chủ nghĩa hiện sinh thường bị nhầm lẫn về động từ to be (thì, là) trong các phân tích của họ về tồn tại (being). Cụ thể, họ cho rằng động từ là (is) mang tính bắc cầu và được cố định trước với một vị ngữ (ví dụ: một quả táo ''là màu đỏ'' (an apple ''is red'')) (không có vị ngữ, từ là (is) là vô nghĩa) và các nhà hiện sinh thường xuyên sử dụng sai khái niệm ở khía cạnh này. Trong cuốn ''Những tháng năm giận dữ'' (''The Angry Years),'' Colin Wilson tuyên bố rằng chủ nghĩa hiện sinh đã tự tạo ra nhiều khó khăn của riêng nó: chúng ta có thể thấy được câu hỏi về tự do ý chí này đã bị làm cho suy đồi như thế nào bởi triết lý hậu lãng mạn, với xu hướng sẵn sàng cho sự lười biếng và nhàm chán của nó, chúng ta cũng có thể thấy nó dẫn đến đâu khi mà chủ nghĩa hiện sinh tìm thấy bản thân nó trong một cái hố mà chính nó tự đào, và sự phát triển của triết học kể từ đó đã đi vòng tròn quanh cái hố đó như thế nào.
kynu tra vinh Walter Kaufmann chỉ trích các phương pháp vô căn cứ sâu sắc và sự khinh miệt nguy hiểm cho lý do đã trở nên quá nổi bật trong triết học hiện sinh. Các nhà triết học thực chứng logic (logical positivist philosophers), như Rudolf Carnap và AJ Ayer, khẳng định rằng những người theo chủ nghĩa hiện sinh thường bị nhầm lẫn về động từ to be (thì, là) trong các phân tích của họ về tồn tại (being). Cụ thể, họ cho rằng động từ là (is) mang tính bắc cầu và được cố định trước với một vị ngữ (ví dụ: một quả táo ''là màu đỏ'' (an apple ''is red'')) (không có vị ngữ, từ là (is) là vô nghĩa) và các nhà hiện sinh thường xuyên sử dụng sai khái niệm ở khía cạnh này. Trong cuốn ''Những tháng năm giận dữ'' (''The Angry Years),'' Colin Wilson tuyên bố rằng chủ nghĩa hiện sinh đã tự tạo ra nhiều khó khăn của riêng nó: chúng ta có thể thấy được câu hỏi về tự do ý chí này đã bị làm cho suy đồi như thế nào bởi triết lý hậu lãng mạn, với xu hướng sẵn sàng cho sự lười biếng và nhàm chán của nó, chúng ta cũng có thể thấy nó dẫn đến đâu khi mà chủ nghĩa hiện sinh tìm thấy bản thân nó trong một cái hố mà chính nó tự đào, và sự phát triển của triết học kể từ đó đã đi vòng tròn quanh cái hố đó như thế nào.
Chủ nghĩa hiện sinh trở nên phổ biến vào những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai và bên cạnh triết học, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực khác như thần học, kịch nghệ, nghệ thuật, văn học và tâm lý học.