981000₫
web hitclub vin Trong năm 1946, một cuộc thám hiểm chung Xô Viết-Mông Cổ tại sa mạc Gobi ở tỉnh Ömnögovi đã lật lên được một hộp xương sọ lớn và một vài đốt sống của khủng long chân thú trong thành hệ Nemegt. Trong năm 1955, Evgeny Maleev, một nhà cổ sinh vật học người Nga, đã dùng mẫu vật này làm mẫu gốc (PIN 551-1) cho một loài mới, mà ông gọi là ''Tyrannosaurus bataar''. Tên định danh loài này xuất phát từ một lỗi chính tả trong tiếng Mông Cổ баатар/''Baatar'' (anh hùng). Trong cùng năm đó, Maleev cũng đã miêu tả và đặt tên ba hộp sọ khủng long chân thú mới, mỗi tên đều gắn với các di cốt bộ xương được phát hiện bởi đoàn thám hiểm trong năm 1948 và năm 1949. Mẫu vật đầu tiên trong số này (PIN 551-2) được đặt tên là ''Tarbosaurus efremovi'', một tên loài mới hợp thành từ tiếng Hy Lạp cổ đại ταρβος/''tarbos'' (có nghĩa là khủng bố, báo động, khủng khiếp, hoặc tôn kính) và σαυρος/''sauros'' (thằn lằn), và phần định danh loài được đặt theo tên của Ivan Yefremov, một nhà cổ sinh vật học Nga đồng thời là một tác giả khoa học viễn tưởng. Hai mẫu vật kia (PIN 553-1 và 552-2 PIN) cũng được đặt tên là loài mới và được gán vào chi có xuất xứ Bắc Mỹ là ''Gorgosaurus'' (tương ứng là ''G. lancinator'' và ''G. novojilovi''). Cả ba mẫu vật này đều nhỏ hơn so với mẫu vật đầu tiên.
web hitclub vin Trong năm 1946, một cuộc thám hiểm chung Xô Viết-Mông Cổ tại sa mạc Gobi ở tỉnh Ömnögovi đã lật lên được một hộp xương sọ lớn và một vài đốt sống của khủng long chân thú trong thành hệ Nemegt. Trong năm 1955, Evgeny Maleev, một nhà cổ sinh vật học người Nga, đã dùng mẫu vật này làm mẫu gốc (PIN 551-1) cho một loài mới, mà ông gọi là ''Tyrannosaurus bataar''. Tên định danh loài này xuất phát từ một lỗi chính tả trong tiếng Mông Cổ баатар/''Baatar'' (anh hùng). Trong cùng năm đó, Maleev cũng đã miêu tả và đặt tên ba hộp sọ khủng long chân thú mới, mỗi tên đều gắn với các di cốt bộ xương được phát hiện bởi đoàn thám hiểm trong năm 1948 và năm 1949. Mẫu vật đầu tiên trong số này (PIN 551-2) được đặt tên là ''Tarbosaurus efremovi'', một tên loài mới hợp thành từ tiếng Hy Lạp cổ đại ταρβος/''tarbos'' (có nghĩa là khủng bố, báo động, khủng khiếp, hoặc tôn kính) và σαυρος/''sauros'' (thằn lằn), và phần định danh loài được đặt theo tên của Ivan Yefremov, một nhà cổ sinh vật học Nga đồng thời là một tác giả khoa học viễn tưởng. Hai mẫu vật kia (PIN 553-1 và 552-2 PIN) cũng được đặt tên là loài mới và được gán vào chi có xuất xứ Bắc Mỹ là ''Gorgosaurus'' (tương ứng là ''G. lancinator'' và ''G. novojilovi''). Cả ba mẫu vật này đều nhỏ hơn so với mẫu vật đầu tiên.
Rất nhiều nhạc sĩ hillbilly, như là Cliff Carlisle, thu âm những bài hát blues trong suốt thập kỉ 20 và trong những năm 30s. Những nghệ sĩ quan trọng khác là Riley Puckett, Don Richardson, Fiddlin' John Carson, Uncle Dave Macon, Al Hopkins, Ernest V. Stoneman, Charlie Poole và the North Carolina Ramblers và The Skillet Lickers cũng đã có bản thu sớm. Các tay ghi-ta thép nhập vào nhạc đồng quê sớm đầu năm 1922, khi Jimmie Tarlton gặp tay ghi-ta Hawaii nổi tiếng Frank Ferera trên bờ biển phía Tây.