787000₫
xsmn 25 8 24 Dương Hành Mật bổ nhiệm Lý Thần Phúc làm Ninh Quốc tiết độ sứ, song Lý Thần Phúc từ chối và tiếp tục chiến dịch đánh Vũ Xương. (Do vậy, Dương Hành Mật bổ nhiệm Đài Mông là quan sát sứ.) Dương Hành Mật cũng cho Cố Toàn Vũ, Tiền Truyền Liệu và thê tử (tức nhi nữ của ông) về với Tiền Lưu. Trong khi đó, Chu Toàn Trung phá hủy kinh sư Trường An và buộc Đường Chiêu Tông phải dời đô đến Lạc Dương. Trên hành trình đến Lạc Dương, Đường Chiêu Tông ra một mật chỉ cho Dương Hành Mật, Lý Khắc Dụng và Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến để yêu cầu họ giải cứu mình; song cả ba đều không có hành động. Tuy nhiên, khi Chu Toàn Trung khiển sứ giả đến thuyết phục Dương Hành Mật từ bỏ chiến dịch đánh Vũ Xương, Dương Hành Mật đáp lại: Đợi đến khi Thiên tử trở về Trường An, sau đó sẽ bãi binh tu hảo.
xsmn 25 8 24 Dương Hành Mật bổ nhiệm Lý Thần Phúc làm Ninh Quốc tiết độ sứ, song Lý Thần Phúc từ chối và tiếp tục chiến dịch đánh Vũ Xương. (Do vậy, Dương Hành Mật bổ nhiệm Đài Mông là quan sát sứ.) Dương Hành Mật cũng cho Cố Toàn Vũ, Tiền Truyền Liệu và thê tử (tức nhi nữ của ông) về với Tiền Lưu. Trong khi đó, Chu Toàn Trung phá hủy kinh sư Trường An và buộc Đường Chiêu Tông phải dời đô đến Lạc Dương. Trên hành trình đến Lạc Dương, Đường Chiêu Tông ra một mật chỉ cho Dương Hành Mật, Lý Khắc Dụng và Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến để yêu cầu họ giải cứu mình; song cả ba đều không có hành động. Tuy nhiên, khi Chu Toàn Trung khiển sứ giả đến thuyết phục Dương Hành Mật từ bỏ chiến dịch đánh Vũ Xương, Dương Hành Mật đáp lại: Đợi đến khi Thiên tử trở về Trường An, sau đó sẽ bãi binh tu hảo.
Sử sách không ghi rõ về quá trình thiết kế, vẽ kiểu Cửu Đỉnh nên rất khó để xác định xem hình dáng của Cửu Đỉnh bây giờ có phải được giữ nguyên như thiết kế ban đầu hay đã bị sửa đổi trong quá trình chế tạo. Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân. Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc đều là Minh Mạng thập lục niên Ất Mùi tức là năm 1835. Nhưng mỗi đỉnh cũng có nét riêng. Cũng là quai đỉnh hình chữ U úp, nhưng góc đáy của nó ở các Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh thì vuông góc, còn ở các đỉnh khác lại uốn cong. Mặt quai thì tùy đỉnh mà bện thừng, cong vỏ măng, cong lòng máng, phẳng bẹt hay có gờ, triện hoặc để trơn. Phần lớn cổ các đỉnh có hình lòng máng, nhưng ở Cao đỉnh, Dụ đỉnh lại để thẳng. Vành miệng của Thuần đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh đều cong nửa vỏ măng, còn ở các đỉnh khác thì thẳng đứng với gờ vuông. Vai nhiều đỉnh có gờ đơn hoặc gờ kép, nhưng một số đỉnh để trơn. Đáy bầu đỉnh phần lớn cong một phần của khối cầu, nhưng ở một số đỉnh khác lại bằng và hơi lõm lên. Chỉ có chân Dụ đỉnh là được tạo đáy thẳng hơi chếch, còn ở các đỉnh khác đều công dạng chân quỳ. Các mảng hình được chạm trên bàu của đỉnh, mỗi đỉnh có 18 mảng hình..