609000₫
xsmn dthap Hiện nay ở Nhật có khoảng 100000 họ đang được sử dụng. Những họ thông dụng ở Nhật hiện nay là , , , . Sự đa dạng này hoàn toàn trái ngược với các quốc gia khác trong cùng văn hoá Á Đông, phản ánh một lịch sử khác biệt của Nhật Bản: trong khi họ Trung Quốc đã được sử dụng từ hàng ngàn năm nay và thường phản ánh toàn bộ một gia tộc hoặc con nuôi của gia đình giàu có (có hoặc không có mối quan hệ di truyền) - và từ đó đã được lan truyền cho Triều Tiên và Việt Nam thông qua tên của các quan lại hoặc nhà giàu; đại đa số các họ hiện đại của Nhật Bản chỉ bắt đầu có từ thế kỷ thứ XIX, tiếp nối các cải cách thời kỳ Minh Trị trong những năm 1870, và được lựa chọn theo ý thích. Việc giới thiệu bằng họ của người Nhật gần đây có hai tác dụng bổ sung: tên tiếng Nhật trở nên phổ biến khi dân số nước này phát triển mạnh (hơn 30 triệu dân trong thời kì đầu của Minh Trị – xem Nhân khẩu học Đế quốc Nhật) so với số lượng trong quá khứ (ví dụ, dân số ước tính năm 1 của Công Nguyên là 300.000 - xem Nhân khẩu học Nhật Bản trước thời kì Minh Trị), và chỉ một thời gian ngắn trôi qua, các tên của người Nhật hầu như chưa gặp phải tình trạng tuyệt chủng về họ như đã xảy ra trong suốt quá trình lịch sử ở Trung Quốc.
xsmn dthap Hiện nay ở Nhật có khoảng 100000 họ đang được sử dụng. Những họ thông dụng ở Nhật hiện nay là , , , . Sự đa dạng này hoàn toàn trái ngược với các quốc gia khác trong cùng văn hoá Á Đông, phản ánh một lịch sử khác biệt của Nhật Bản: trong khi họ Trung Quốc đã được sử dụng từ hàng ngàn năm nay và thường phản ánh toàn bộ một gia tộc hoặc con nuôi của gia đình giàu có (có hoặc không có mối quan hệ di truyền) - và từ đó đã được lan truyền cho Triều Tiên và Việt Nam thông qua tên của các quan lại hoặc nhà giàu; đại đa số các họ hiện đại của Nhật Bản chỉ bắt đầu có từ thế kỷ thứ XIX, tiếp nối các cải cách thời kỳ Minh Trị trong những năm 1870, và được lựa chọn theo ý thích. Việc giới thiệu bằng họ của người Nhật gần đây có hai tác dụng bổ sung: tên tiếng Nhật trở nên phổ biến khi dân số nước này phát triển mạnh (hơn 30 triệu dân trong thời kì đầu của Minh Trị – xem Nhân khẩu học Đế quốc Nhật) so với số lượng trong quá khứ (ví dụ, dân số ước tính năm 1 của Công Nguyên là 300.000 - xem Nhân khẩu học Nhật Bản trước thời kì Minh Trị), và chỉ một thời gian ngắn trôi qua, các tên của người Nhật hầu như chưa gặp phải tình trạng tuyệt chủng về họ như đã xảy ra trong suốt quá trình lịch sử ở Trung Quốc.
Người Nhật tính diện tích mặt bằng các căn phòng truyền thống của mình (''washitsu'') bằng số lượng tấm nệm tatami. Có bao nhiêu tấm nệm thì gọi là bấy nhiêu '''jō''' (kanji cũng viết là 畳). Có khi người ta dùng một nửa nệm (kích thước các chiều 1:1) để bổ sung vào tatami. Các diện tích phòng ở truyền thống thì tatami có thể gồm 4 jō, 6 jō, 8 jō, 10 jō, hay 12 jō. Nếu thêm nửa nệm thì gọi là 4 jō rưỡi, 6 jō rưỡi, v.v...