521000₫
xsmn hoom nay Ngoài là hậu quả cay đắng cho sai lầm của Nga hoàng, chiến thắng huy hoàng này có ý nghĩa rất to lớn đối với quân Pháp vì diễn ra đúng vào ngày kỷ niệm lễ đăng ngôi của Hoàng đế Napoléon I và còn phát huy đại thắng ở Ulm trước đó. Trong khi thắng lợi ấy đưa ông đến tầm cỡ Julius Caesar, sau chiến thắng oanh liệt, ông đã đọc bản ''Tuyên cáo thứ 30'' để tuyên dương ba quân. Sự bền bỉ của ông nhằm đạt mục đích lớn khiến các quân lực Âu châu phải hoảng. Với thảm kịch của Aleksandr I, Napoléon I thắng Nga trong cuộc chiến này còn oanh liệt hơn cả hồi Chiến tranh Liên minh thứ hai. Trên đà chiến thắng, vị Đại Hoàng đế dễ dàng đặt ra điều khoản cho nước Áo thất trận. Đồng thời, ông cũng tổ chức truy kích rất bài bản. Vào ngày 26 tháng 12 năm 1805, Pháp và Áo ngồi vào bàn đàm phán với Hiệp ước Pressburg, qua đó nước Áo rút khỏi chiến tranh, củng cố lại các Hiệp ước Campo Formio và Lunéville trước đó, buộc Áo buông bỏ quyền kiểm soát một số vùng ở Đức cho các đồng minh của Napoléon I, và buộc vương triều Habsburg phải giao nộp 40 triệu quan Pháp chiến phí, chấm dứt uy thế của người Áo trên đất Đức. Nhà nước phong kiến Áo bị hạ nhục; Quân đội Nga được phép quay trở về quê nhà. Nhưng đến đây, Napoléon I đã hoàn tất sự lăng nhục Đế quốc Nga bằng việc đập tan di sản huy hoàng của Nga hoàng Ekaterina II đã để lại cho họ. Với Hiệp ước Pressburg, chiến dịch năm 1805 huy hoàng của Napoléon I - mà đỉnh điểm là đại thắng ở Austerlitz vẻ vang - đã hoàn tất. Chiến thắng cũng đã đưa đến việc thành lập Liên minh sông Rhine, bao gồm các quốc gia của Đức có nhiệm vụ làm tấm đệm giữa Pháp và Trung Âu - như vậy Đế chế Pháp và vươn tầm ảnh hưởng ra tới tận con tim của đất Đức. Với ý nghĩa trọng đại của mình, đại thắng ở Austerlitz đã mang lại vương vị cho các anh em của vị Hoàng đế nước Pháp. Vương quốc Phổ, trước trận Austerlitz từng gửi tối hậu thư cho Napoléon I, đã phải khuất phục. Như thế, chiến thắng quyết định của ông đã củng cố hoàn toàn vai trò liệt cường của Đế chế Pháp, đánh thắng mọi kẻ thù ở châu Âu và hạ nước Áo thành một Nhà nước tầm thường. Chiến thắng oanh liệt ở Austerlitz cũng là một thảm họa đối với các lực lượng chống Pháp ở Ý. Cũng với đại thắng rất tiếng vang này - Napoléon I cho là thể hiện rõ nét tính thiêng liêng của chiến tranh, các chiến sĩ của ông có vẻ như trở nên bất khả chiến bại. Trận thắng lớn ở Austerlitz khiến cho cái tên ''Người thắng trận Austerlitz'' trở nên gắn chặt với Napoléon I, và sau đại thắng ông đã cho xây Khải Hoàn Môn Paris. Sự tan vỡ của khối Liên minh thứ ba là một đòn giáng nghiêm trọng vào Thủ tướng Anh Quốc William Pitt Trẻ, khiến cho ông vô cùng tuyệt vọng, dẫn tới sự suy sụp tinh thần của ông và cứ theo đó ông qua đời. Rồi, vào năm 1806, Hoàng đế Franz II - cảm thấy Đế chế Đức đã tan rã trước đà thắng lợi của Napoléon I - buộc phải cáo chung Đế chế và chỉ còn giữ lại ngôi Hoàng đế Franz I của Áo. Mặc dù vậy nhưng hòa bình không kéo dài khi mà nước Phổ nhanh chóng tham chiến trong Liên minh thứ tư vào năm 1806 - khi Napoléon I đã phát huy đại thắng Austerlitz bằng chiến công phá Phổ. Bên cạnh thiên tài quân sự của Napoléon I, sự thiếu hụt tài năng chính trị của ông đã được thể hiện ngay sau đại thắng ở Austerlitz: ông đã không lật đổ Vương triều nhà Habsburg, và điều này tạo tiền đề cho thất bại quyết định của Napoléon I nói riêng và nền Đế chế thứ nhất nói chung. Song, chiến thắng uy vũ của ông với giá trị chiến lược to lớn cũng tạo điều kiện cho ông vẽ lại bản đồ và làm bá châu Âu, và cho Đế quốc Ottoman tuyên chiến với Nga vào năm 1806. Đối với Aleksandr I, đại bại ở Austerlitz là cuộc thử lửa trong cuộc đời của ông.
xsmn hoom nay Ngoài là hậu quả cay đắng cho sai lầm của Nga hoàng, chiến thắng huy hoàng này có ý nghĩa rất to lớn đối với quân Pháp vì diễn ra đúng vào ngày kỷ niệm lễ đăng ngôi của Hoàng đế Napoléon I và còn phát huy đại thắng ở Ulm trước đó. Trong khi thắng lợi ấy đưa ông đến tầm cỡ Julius Caesar, sau chiến thắng oanh liệt, ông đã đọc bản ''Tuyên cáo thứ 30'' để tuyên dương ba quân. Sự bền bỉ của ông nhằm đạt mục đích lớn khiến các quân lực Âu châu phải hoảng. Với thảm kịch của Aleksandr I, Napoléon I thắng Nga trong cuộc chiến này còn oanh liệt hơn cả hồi Chiến tranh Liên minh thứ hai. Trên đà chiến thắng, vị Đại Hoàng đế dễ dàng đặt ra điều khoản cho nước Áo thất trận. Đồng thời, ông cũng tổ chức truy kích rất bài bản. Vào ngày 26 tháng 12 năm 1805, Pháp và Áo ngồi vào bàn đàm phán với Hiệp ước Pressburg, qua đó nước Áo rút khỏi chiến tranh, củng cố lại các Hiệp ước Campo Formio và Lunéville trước đó, buộc Áo buông bỏ quyền kiểm soát một số vùng ở Đức cho các đồng minh của Napoléon I, và buộc vương triều Habsburg phải giao nộp 40 triệu quan Pháp chiến phí, chấm dứt uy thế của người Áo trên đất Đức. Nhà nước phong kiến Áo bị hạ nhục; Quân đội Nga được phép quay trở về quê nhà. Nhưng đến đây, Napoléon I đã hoàn tất sự lăng nhục Đế quốc Nga bằng việc đập tan di sản huy hoàng của Nga hoàng Ekaterina II đã để lại cho họ. Với Hiệp ước Pressburg, chiến dịch năm 1805 huy hoàng của Napoléon I - mà đỉnh điểm là đại thắng ở Austerlitz vẻ vang - đã hoàn tất. Chiến thắng cũng đã đưa đến việc thành lập Liên minh sông Rhine, bao gồm các quốc gia của Đức có nhiệm vụ làm tấm đệm giữa Pháp và Trung Âu - như vậy Đế chế Pháp và vươn tầm ảnh hưởng ra tới tận con tim của đất Đức. Với ý nghĩa trọng đại của mình, đại thắng ở Austerlitz đã mang lại vương vị cho các anh em của vị Hoàng đế nước Pháp. Vương quốc Phổ, trước trận Austerlitz từng gửi tối hậu thư cho Napoléon I, đã phải khuất phục. Như thế, chiến thắng quyết định của ông đã củng cố hoàn toàn vai trò liệt cường của Đế chế Pháp, đánh thắng mọi kẻ thù ở châu Âu và hạ nước Áo thành một Nhà nước tầm thường. Chiến thắng oanh liệt ở Austerlitz cũng là một thảm họa đối với các lực lượng chống Pháp ở Ý. Cũng với đại thắng rất tiếng vang này - Napoléon I cho là thể hiện rõ nét tính thiêng liêng của chiến tranh, các chiến sĩ của ông có vẻ như trở nên bất khả chiến bại. Trận thắng lớn ở Austerlitz khiến cho cái tên ''Người thắng trận Austerlitz'' trở nên gắn chặt với Napoléon I, và sau đại thắng ông đã cho xây Khải Hoàn Môn Paris. Sự tan vỡ của khối Liên minh thứ ba là một đòn giáng nghiêm trọng vào Thủ tướng Anh Quốc William Pitt Trẻ, khiến cho ông vô cùng tuyệt vọng, dẫn tới sự suy sụp tinh thần của ông và cứ theo đó ông qua đời. Rồi, vào năm 1806, Hoàng đế Franz II - cảm thấy Đế chế Đức đã tan rã trước đà thắng lợi của Napoléon I - buộc phải cáo chung Đế chế và chỉ còn giữ lại ngôi Hoàng đế Franz I của Áo. Mặc dù vậy nhưng hòa bình không kéo dài khi mà nước Phổ nhanh chóng tham chiến trong Liên minh thứ tư vào năm 1806 - khi Napoléon I đã phát huy đại thắng Austerlitz bằng chiến công phá Phổ. Bên cạnh thiên tài quân sự của Napoléon I, sự thiếu hụt tài năng chính trị của ông đã được thể hiện ngay sau đại thắng ở Austerlitz: ông đã không lật đổ Vương triều nhà Habsburg, và điều này tạo tiền đề cho thất bại quyết định của Napoléon I nói riêng và nền Đế chế thứ nhất nói chung. Song, chiến thắng uy vũ của ông với giá trị chiến lược to lớn cũng tạo điều kiện cho ông vẽ lại bản đồ và làm bá châu Âu, và cho Đế quốc Ottoman tuyên chiến với Nga vào năm 1806. Đối với Aleksandr I, đại bại ở Austerlitz là cuộc thử lửa trong cuộc đời của ông.
Các đảo này một phần thuộc Đông Timor (Timor-Leste) và các tỉnh của Indonesia: Bali, Nusa Tenggara Barat và Nusa Tenggara Timur.